Những điều cần biết về giải golf US Open
Webb Simpson là đương kim vô địch. Ảnh: SI. |
Giải vô địch Mỹ Mở rộng, tên thường gọi là US Open, là giải golf mở rộng thường niên ở Mỹ. Theo tuần tự, đây là giải thứ hai trong bốn giải major của làng golf, và nằm trong lịch thi đấu chính thức của cả PGA Tour lẫn European Tour. Giải đấu do Hiệp hội golf Mỹ (USGA) tổ chức vào giữa tháng sáu hàng năm và nếu không có bất thường nào dẫn đến việc bị trì hoãn, vòng cuối cùng của giải đấu thường diễn ra vào ngày chủ nhật thứ ba của tháng 6 - đúng vào ngày của Bố.
US Open được tổ chức ở nhiều sân khác nhau với tiêu chí đặt nặng độ khó, nên thông thường ngay cả các golf thủ xuất sắc ở nhóm đầu cũng chỉ đạt được kết quả xung quanh điểm chuẩn (một phần bởi par của mỗi vòng thường là 70 gậy, ngoại trừ những sân quá dài). Các sân thi đấu của US Open hầu như đều dài, cỏ rough cao, fairway hẹp và cỏ trên green bị cắt ngắn làm bóng lăn rất nhanh.
Được làm sân chủ nhà của US Open là một vinh dự lớn nên rất nhiều sân xin đăng cai và chấp nhận "đại phẫu" để đáp ứng những tiêu chí của giải.
Thể thức play-off
US Open là giải duy nhất trong bốn giải major phải đấu thêm vòng play-off đủ 18 hố vào thứ hai, nếu sau vòng thứ tư ở ngày chủ nhật các golf thủ đứng đầu có điểm số bằng nhau. Ba giải major còn lại là Masters, Bristish Open và PGA Championship đều chọn giải pháp đấu play-off ngay trong ngày chủ nhật.
Nếu sau vòng đấu phụ đầu tiên vẫn bất phân thắng bại, các golf thủ sẽ đấu play-off có áp dụng luật "cái chết bất ngờ". Trong lịch sử, US Open đã ba lần điều này xả ra. Lần gần đây nhất, năm 2008, Tiger Wood thắng Rocco Mediate ở hố phụ thêm đầu tiên. Hai lần còn lại là năm 1990 và 1994.
Trước khi luật "cái chết bất ngờ" ra đời những năm 1950, trong trường hợp bằng điểm sau 5 vòng (4 vòng chính và một vòng phụ) các golf thủ sẽ đấu tiếp 18 hố như các năm 1925, 1939 và 1946. Thậm chí, nếu sau đó vẫn chưa ngã ngũ, họ lại đấu thêm 2 vòng phụ nữa (tổng cộng 36 hố) như năm 1931.
Lịch sử
US Open đầu tiên diễn ra ngày 4/10/1895 tại sân golf 9 hố Newport Country Club (Newport, Rhode Island). Các golf thủ thi đấu 4 vòng, tổng cộng 36 hố trong một ngày. Tham gia tranh tài là 10 người chơi chuyên nghiệp và một nghiệp dư. Nhà vô địch năm đó là golf thủ 21 tuổi người Anh, Horace Rawins.
Người Anh sau đó thường xuyên giành ngôi quán quân của giải, và phải đến năm 1911 mới có golf thủ Mỹ đầu tiên - John McDemott - về nhất. Kể từ đó nước chủ nhà bắt đầu thống trị trên bảng giải thưởng.
Từ năm 1950, mới có golf thủ từ sáu quốc gia ngoài nước Mỹ vô địch. Nhiều nhất trong số đó là Nam Phi, với 5 lần kể từ năm 1965. Chuỗi ngày dài nhất không một người Mỹ nào vô địch kéo từ năm 2004 đến 2007. Năm 2010, Graeme McDowell (Bắc Ireland) là golf thủ châu Âu đầu tiên kể từ thời của Tony Jacklin năm 1970 giành chức vô địch.
Cho đến nay mới có golf thủ của 10 quốc gia giành vị trí quán quân của US Open, bao gồm: Mỹ (80), Scottland (13), Anh (6), Nam Phi (5), Jersey (2), Australia (2), Northen Ireland (2), New Zealand (1), Argentina (1).
Thành phần thi đấu: Đấu trường bao gồm 156 golf thủ thuộc hai phạm trù: đặc cách và vòng đấu loại.
Tiêu chí đặc cách được điều chỉnh hàng năm nhưng về cơ bản rất nhất quán. Năm nay sẽ được xem xét như sau:
Vô địch US Open 10 năm gần đây
Vô địch và á quân giải nghiệp dư Mỹ năm 2012
Giành Mark H. McCormack Medal 2012 (cho golf thủ nghiệp dư đứng đầu thế giới)
Vô địch Masters, Open Championship và PGA 5 năm gần đây
Vô địch Players Championship 3 năm gần đây
Vô địch BMW PGA Championship năm 2013
Top 10 hoặc đồng hạng US Open 2012
Góp mặt ở Tour Championship 2012
Top 60 thế giới tính theo bảng xếp hạng ngày 27/5
Top 60 thế giới của ngày 10/6
Qua vòng loại: Bất cứ ai, không kể nghề nghiệp tuổi tác xuất thân, đều có thể tham gia vòng đấu loại để giành suất thi đấu US Open. Vòng thứ nhất là cuộc thi tài 18 hố trên hơn 100 sân golf khắp nước Mỹ. Người thắng cuộc sẽ theo khu vực thi đấu 36 hố golf ở vòng hai để giành một số lượng hạn chế suất chơi tại giải đấu danh giá. Vòng đấu loại còn được tổ chức tại một địa điểm ở châu Âu và một địa điểm ở Nhật Bản.
Một số kỷ lục
Willie Anderson, Bobby Jones, Ben Hogan và Jack Nicklaus đang nắm kỷ lục về số lần vô địch US Open (4 lần).
Hale Irwin là người nhiều tuổi nhất từng đăng quang ở giải đấu này khi 45 tuổi và 15 ngày (năm 1990), trong khi trẻ nhất là John McDermott ở tuổi 19, 10 tháng và 14 ngày (năm 1911).
Chuỗi chiến thắng dài nhất: 3 lần, của Willie Anderson vào các năm 1903, 1904 và 1905.
Chuỗi thi đấu liên tục dài nhất: 44 năm, của Jack Nicklaus từ 1957 đến 2000.
Chiến thắng có cách biệt lớn nhất: 15 gậy Tiger Woods năm 2000. Đây cũng là kỷ lục ở mọi giải major.
Điểm thấp nhất trong 36 hố, 54 hố và 72 hố đều thuộc về Rory McIlroy khi anh vô địch năm 2011 (lần lượt là 131 gậy, 199 gậy và 268 gậy). Kết quả 4 vòng đấu của anh là 65, 66, 68 và 69 gậy.
Ít gậy dưới par nhất sau 72 hố: 16 gậy âm, Rory McIlroy, năm 2011.
Những golf thủ từng đánh cả 4 vòng dưới par: Lee Trevino, 1968 (69–68–69–69, par 70); Tony Jacklin, 1970 (71-70-70-70, par 72); Lee Janzen, 1993 (67-67-69-69, par 70); Curtis Strange, 1994 (70-70-70-70, par 71); Rory McIlroy (65-66-68-69, par 71) và Robert Garrigus (70-70-68-70), 2011.
Cả 4 vòng dưới 70 gậy: Trevino, 1968; Janzen, 1993; McIlroy, 2011.